Các quy tắc ở giai đoạn này dựa trên những nguyên lý tu từ được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Ngoài ra, còn có những cuốn tiểu sử không thuộc hai loại trên. Montaigne (1533-1592) - một trong những tác giả có ảnh hưởng nhất trong phong trào Phục Hưng ở Pháp từng nói Sự ngu dốt sơ đẳng làm cản đường kiến thức.
Xây dựng một hệ thống thuật ngữ trung tính về chủ đề mà ta cho rằng tất cả hoặc đa số tác giả đều sử dụng đến chúng, dù họ có thật sự dùng hay không. Trong đó, các quy tắc của giai đoạn thứ ba được liệt kê theo trật tự dưới đây: Chỉ khi đã nắm vững cả bốn giai đoạn đọc sơ cấp, trẻ mới có sự chuẩn bị cho các giai đoạn cao hơn, bước đầu đọc một cách độc lập và tự mình học hỏi.
Nhưng ở đây, chúng ta chỉ quan tâm đến trường hợp một người có cơ sở lập luận tốt nhưng lại rút ra kết luận không thuyết phục. Một triết gia sẽ dẫn người đọc hướng tới kinh nghiệm chung, thông thường của họ để kiểm chứng, xác thực hay ủng hộ những gì người viết đưa ra. Và tất nhiên mọi người đều hy vọng nhân chứng nói thật.
Tuy nhiên, việc này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Tất nhiên, đọc phân tích cũng mang tính chủ động, nhưng khi đọc phân tích, bạn đã tự đặt mình vào mối quan hệ giữa trò với thầy. Hai quy tắc trên cũng có thể được áp dụng để đọc bất cứ phần quan trọng nào hoặc đọc cả một cuốn sách mô tả.
Song điều chúng tôi muốn nói là bạn không nên lo lắng nếu lúc đầu mọi thứ có vẻ rối rắm. Điểm khác biệt thứ hai bắt nguồn từ thực tế là những câu phức tạp thường biểu đạt nhiều hơn một nhận định. Anh ta phải biết cách vừa tác động đến cảm xúc vừa điều khiển được lý trí của độc giả.
Điều quan trọng là bạn có khả năng đọc với nhiều tốc độ khác nhau, và biết khi nào dùng tốc độ nào là phù hợp. Nếu tình trạng mập mờ này cứ tiếp diễn, tác giả và độc giả sẽ không thể đạt được sự thống nhất về ý kiến. Nhưng nó không cho người đọc biết bài đang đọc có nghĩa gì vì bài đó có liên quan đến chủ đề ở vài hoặc nhiều khía cạnh khác nhau.
Bạn có thể kể lại kinh nghiệm nào của bản thân mà nhận định đó miêu tả, hoặc chỉ ra mức độ phù hợp giữa nhận định của tác giả với thực tế trải nghiệm của bạn không? Bạn có thể minh hoạ cho chân lý đã được phát biểu bằng những ví dụ cụ thể hay không? Tưởng tượng ra một trường hợp khả thi cũng hiệu quả không kém việc nêu ra một tình huống thật. Thứ hai, bạn phải xác định được có thể tìm những điều mình muốn biết ở đâu. Những nhà triết học không đặt câu hỏi giống của nhà khoa học, và họ cũng không sử dụng phương pháp tương tự để trả lời.
Từ điển là một loại sách tham khảo nên cách sử dụng nó cũng bị chi phối bởi những yêu cầu trên. Nhưng sức mạnh khiến ta tiếp tục hành động từ những kích thích ấy lại rất hạn chế. Nói như trên không có nghĩa rằng sách của Commoner quan trọng, còn sách của Whitehead và Barnett thì không.
Tuyên bố này nhìn chung có cơ sở của nó. Tóm lại, khi đọc đồng chủ đề, chúng ta phải xây dựng một hệ thống thuật ngữ, trước hết giúp ta hiểu được ý đồ của tất cả chứ không chỉ một hay một số tác giả, để giúp ta giải quyết được vấn đề. Ví dụ, các em học sinh lớp một nhìn thấy một tập hợp các dấu hiệu màu đen trên nền giấy trắng, các dấu hiệu đó có nghĩa là Con mèo ngồi trên chiếc mũ.
Và khi đã đọc xong, rất có thể bạn kết luận là một nửa số sách bạn đọc không liên quan gì đến chủ đề cả. Sau khi hoàn tất bốn bước đầu này, bạn đã có thể có đủ thông tin về cuốn sách và biết mình có muốn, có nên đọc nó kỹ hơn hay không. Bạn hãy đọc phần định lý và xem qua phần chứng minh để nắm ý chính.